Trường Học Tương Lai Sẽ Dạy Gì?

Là một người hơi thích học, chủ đề trường học lý tưởng luôn quanh quẩn trong đầu Zim từ lâu rồi. Hôm nay Zim tổng kết list lại ở đây. Sau này nghĩ được thêm gì mới lại update vào tiếp.

Zim nghĩ nhiều cách tiếp cận cho bài viết này: thư gửi con, thư gửi Hiệu Trưởng, 101 các loại thư khác nhau. Mà cảm giác mỗi lần Zim văn vẻ một tí là thấy nó cứ.. tụt tụt. Thôi để viết như mình nói vậy. Let’s go.

What does education even mean?

Tại sao chúng ta lại tới trường? Phải chăng là để làm bài kiểm tra và cố kiếm được một công việc ổn định? Giáo dục chỉ dừng ở việc kiếm miếng cơm thôi sao?

Bạn có thể có nhiều bằng cấp, có nhiều chữ cái đằng sau tên của mình, và có một công việc lương cao; rồi sao nữa?

Tất cả những thứ trên có ý nghĩa gì nếu như sau đó đầu óc của chúng ta trở nên buồn tẻ, mệt mỏi và ngu ngốc? Tất cả những thứ trên có ý nghĩa gì nếu chúng ta vẫn lo lắng và sợ hãi cuộc sống?

Vậy, giáo dục sẽ thật vô nghĩa, nếu không giúp chúng ta hiểu được sự rộng lớn của cuộc sống và tất cả những sự tinh tế, những vẻ đẹp khác thường, những nỗi buồn và niềm vui của nó.

Nếu chúng ta chỉ chuẩn bị bản thân chỉ để kiếm sống, chúng ta sẽ bỏ lỡ toàn bộ ý nghĩa của cuộc sống. Hầu hết chúng ta chỉ được chuẩn bị cho một phần nhỏ của cuộc sống: qua được một vài kì thi, tìm một công việc, kết hôn, có con, và ngày qua ngày như các cỗ máy. Cuộc sống của chúng ta sẽ chỉ có vậy thôi sao?


Internet là một vũ khí bí mật của tri thức. Với nguồn thông tin và các công cụ học vô hạn, việc học trở nên dễ dàng. Chỉ có khát khao được học là khan hiếm.

Nếu thực sự muốn học, Zim hoàn toàn có thể lên Khan Academy, xem các free lectures của Yale hoặc MIT, đọc blog và nghe podcast của những người thú vị.

‘Free education is abundant, all over the Internet. It’s the desire to learn that’s scarce.’

Lợi ích duy nhất của trường học hiện nay là socialising. Học sinh được chơi và học cách cư xử với những người bạn cùng trang lứa. Vậy trong tương lai, Zim sẽ muốn trường dạy con mình những gì?

1. Creating a NO FEAR Environment

‘Confidence comes when you feel completely at home, secure.’

Đa phần chúng ta tới từ môi trường dạy phải biết tôn trọng địa vị (status). Bố mẹ có địa vị, thầy cô giáo có địa vị, nên chúng ta tới trường cùng với nỗi sợ, phải biết nghe lời và tôn trọng những người có địa vị cao hơn ta.

Trường học tương lai phải tạo ra được một môi trường tự do, nơi mà chúng ta chỉ tập trung vào chức năng giảng dạy và những giá trị tích cực. Môi trường mà học sinh sẽ tôn trọng một người vì những nguyên tác và giá trị sống, thay vì tôn trọng (sợ hãi) vì địa vị của họ.

Việc được học trong một môi trường không có sự sợ hãi (a no fear environment) là rất quan trọng, nhất là khi còn trẻ. Vì khi đó, học sinh có thể tự đặt câu hỏi, tự tìm hiểu sự thật (the truth) về thế giới xung quanh. Thay vì tuân thủ theo những định kiến và khuôn mẫu do người khác áp đặt.

Đa số chúng ta, khi già đi, thường trở nên sợ hãi; chúng ta sợ sống, sợ mất việc, sợ truyền thống, sợ đồng nghiệp sẽ nghĩ gì, sợ cái chết. Phần lớn chúng ta đều đang sợ hãi dưới một hình thức nào đó; và khi có sự sợ hãi, chúng ta ngừng tìm hiểu, ngừng quan sát, ngừng học hỏi.

‘School replace curiosity with compliance’.

‘Ngồi xuống.’ ‘Trật tự’. ‘Mai kiểm tra, cả lớp về học thuộc lòng 5 trang hôm nay vừa học nhé.’ Đây là những câu mà không ít người trong chúng ta được nghe hàng tuần.

Thật dễ dàng để tuân theo những gì xã hội hoặc cha mẹ, giáo viên nói với bạn. Đó là một cách an toàn và dễ dàng để tồn tại; nhưng đó không phải là sống, bởi vì trong đó đầy sợ hãi.

Điều đầu tiên trường học của tương lai phải làm được là tạo được một môi trường nơi học sinh có thể suy nghĩ tự do, không sợ hãi, không có công thức, để các bạn bắt đầu tự mình khám phá đâu là sự thật.

True education is to learn how to think, not what to think.

2. Learning How to Learn and Ask Better Questions

Điều gì giúp chúng ta học tốt hơn? Phải bắt đầu tìm hiểu một vấn đề như thế nào? Làm thế nào để đặt câu hỏi tốt hơn? Zim mong muốn trường học trong tương lai sẽ dạy học sinh những điều này.

Không còn những ‘tip’ học bài như ‘đọc đi đọc lại là sẽ nhớ’ mà thay vào đó, chúng ta sẽ hiểu hơn về cách con người tiếp thu thông tin mới, sự quan trọng của việc ngủ, các mental models khác nhau để nhìn nhận một vấn đề,…

Trong kỷ nguyên của Google và smart phones, học thuộc lòng trở nên lỗi thời. Vậy tại sao nền giáo dục hiện tại vẫn đặt nặng việc chúng ta phải nhớ ngày tháng năm sinh của một vì tướng nào đấy (và phải trả lời ngay tại chỗ), thay vì dạy học sinh các kỹ năng tìm hiểu, research, giải quyết vấn đề?

Ở trường học tương lai, chúng ta sẽ được học cách đặt những câu hỏi thú vị, những câu hỏi để đi sâu vào gốc rễ của vấn đề, những câu hỏi tiếp cận vấn đề qua một góc nhìn khác.

Đây là một phần thiết yếu của giáo dục: học cách đứng một mình để chúng ta không bị cuốn theo những áp đặt của người khác, biết cách tự học và đặt câu hỏi để tự mình khám phá ra đâu là sự thật.

Not to imitate but to discover.

Learning How to Learn: Powerful mental tools to help you master tough subjects | Coursera

3. How to Fail – How to Iterate

Một hình ảnh chúng ta sẽ không thấy trong trường học tương lai: Giáo viên gọi học sinh A đứng lên đọc to đáp án, khi học sinh A không trả lời kịp hoặc trả lời sai, giáo viên lập tức hỏi ‘có bạn nào khác không?’ Cả lớp đua nhau xem ai trả lời được đúng trước.

Trong thực tế, các vấn đề được giải quyết bằng sự kiên trì, nỗ lực thử đi thử lại. Chắc chắn không phải ‘ai giải được bài trong 5 giây tiếp theo?’

Trường học tương lai sẽ dạy học sinh cách đón nhận thất bại. Làm thế nào để thử nghiệm nhiều phương án khác nhau. Làm thế nào để thử nhiều giải pháp khác nhau trong thời gian ngắn và học từ những sai lầm mình mắc phải.

Giáo viên trong tương lai sẽ không giải bài toán cái bụp, hoặc hỏi xem ai làm nhanh nhất, mà nên làm mẫu cho học sinh thấy thế giới thực tế sẽ như thế nào: không có ai có tất cả các câu trả lời cả. Cuộc sống sẽ thưởng cho những ai sẵn sàng thử nghiệm, thất bại và học từ những thất bại đó.

4. How to communicate

Trường học tương lai sẽ dạy những cách cho và nhận feedback. Zim không nói về việc dạy các mẫu câu như học vẹt. Học sinh sẽ được học về việc con người thường có những cách cho đi và đón nhận phản hồi như thế nào, làm thế nào để lắng nghe tốt hơn.

Thanks for the Feedback: The Science and Art of Receiving Feedback Well – Douglas Stone & Sheila Heen

5. How to negotiate

Phần lớn chúng ta học cách negotiate (thương lượng) từ những người xung quanh mình. Như khi đi cùng mẹ ra chợ mặc cả giá thịt bò, hay như việc bạn mặc cả giờ đi ngủ cùng bố. Mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta xoay quanh negotiation. Vậy mà đa số chỉ dừng ở mức đôi co, lên xuống mức giá cho tới khi một bên bỏ cuộc. Chúng ta vẫn thấy điều này ở những cuộc thương lượng cấp cao.

Nhưng cuộc sống đâu chỉ có cao hay thấp, trắng hay đen. True negotiation nằm ở khả năng thực sự lắng nghe và tìm hiểu xem đối phương đang gặp những khúc mắc gì. True negotiation nằm ở việc đặt những câu hỏi tốt hơn, để tìm được sự thật đằng sau câu trả lời ‘Không’ của họ.

Getting to Yes: Negotiating Agreement Without Giving In – Roger Fisher
Never Split the Difference: Negotiating As If Your Life Depended On It – Chris Voss
Influence: The Psychology of Persuasion – Robert Caldini
Daniel Pink’s Masterclass

6. Collaboration

Tua ngược thời gian về nhiều ngàn năm trước, khi con người chưa cấp số nhân sự thịnh vượng nhờ thương mại và các cuộc cách mạng công nghiệp, chúng ta vẫn phải tranh giành nguồn lương thực khan hiếm.

Bộ lạc hàng xóm thịt được con mammoth thì có nghĩa là bộ lạc của chúng mình sẽ bị đói. Con người được Mẹ Tự Nhiên huấn luyện để nhìn nhận ‘Lợi ích của đối phương là mất mát của bản thân (Your gain is my loss).’

Nhưng thực chất, như lịch sử đã dạy chúng ta, innovation tới từ việc mọi người hợp tác với nhau. Ideas come together and have sex with each other!

Trường học tương lại sẽ dạy học sinh collaborate với nhau nhiều hơn. Thử nghiệm các ý tưởng mới cùng nhau nhiều hơn. Thay đổi cách nhìn nhận cũ thành ’Your gain is my gain.’

Một trong những ideas về team work rất hay mà Zim mới biết tới là Ubuntu trong series tài liệu The Playbook về Doc Rivers trên Netflix. Ubuntu tới từ một câu nói của người Zulu ‘Umuntu ngumuntu ngabantu,’ dịch thành, ‘a person can only be a person through others.’ (more on this later)

The Rational Optimist: How Prosperity Evolves – Matt Ridley
The Playbook on Netflix

7. What is Happiness?

(Zim sẽ dành hẳn một bài nói về Happiness. Here’s a part of it)
Hầu hết mọi cảm xúc tiêu cực mà chúng ta trải qua đều xuất phát từ một attachment (or dependence).

‘An attachment is a state of clinging that comes from the false belief that something or someone is necessary for your happiness.’

Trường học tương lai sẽ giúp học sinh nhận thức được những attachments mà chúng ta có thể đang phụ thuộc vào. Nhận thức là bước đầu tiên của sự thay đổi.

Think on These Things – J. Krishnamurti
The Way to Love: Meditations for Life – Anthony de Mello

8. Empathy & Thoughtfulness

Với Zim, một trong những bài học quan trọng nhất mà chúng ta có thể học được là Empathy (đồng cảm). Đặt mình vào vị trí của bạn bè, đặt mình vào vị trí của khách hàng, đặt mình vào vị trí của người đối diện.

Hôm trước Zim đọc được một bài post của cô Nguyễn Phi Vân về Klassens tid, một trong những môn học chính khoá của hệ thống trường Đan Mạch. ‘Trong tiết học, học sinh và giáo viên cùng thảo luận các vấn đề học sinh gặp phải, và cùng tìm giải pháp lắng nghe và thông cảm.’ It’s a pretty good start in my opinion.

9. Invisible Forces of Life

Những sức mạnh vô hình của cuộc sống mà mãi tới sau này Zim mới bắt đầu hiểu dần.

The power of compounding
Chúng ta không được tiến hoá để hiểu hoặc hình dung ra được compounding (lãi kép) có sức mạnh như thế nào. Albert Einstein nói compounding là ‘the most powerful force in the universe.’

Compounding không chỉ xuất hiện ở việc lãi xuất kép trong tài chính, lợi ích của việc bạn tập thể dục hàng ngày cũng sẽ compound lên gấp nhiều lần, việc ngày qua ngày công ty bạn đem lại giá trị cho khách hàng cũng sẽ compound dần dần.

Nếu bạn để ý biểu đồ tăng trưởng của các công ty lớn, hoặc tốc độ gia tăng tài sản của một tỷ phú, chúng không bao giờ là đường thẳng cả. Chúng ta hiểu được compounding càng sớm càng có lợi.

The power of momentum
Newton’s first law of motion states: An object at rest stays at rest and an object in motion stays in motion.

Sẽ rất khó để chiến thắng sức ì khi bắt đầu làm một việc gì đó. Nhưng một khi có momentum, đã quen dần thì việc đó trở nên dễ dàng hơn. Và khi mình làm một điều gì đó đều đặn, sức mạnh của compounding lại tích luỹ dần.

Nếu hiểu được sự quan trọng của momentum trong cuộc sống, chúng ta sẽ để ý và cố gắng bảo vệ kỹ nguồn năng lượng này. Zim đã có rất nhiều lần dừng đi tập thể dục hay đọc sách chỉ vì nghỉ lễ và đi du lịch vài ngày. Protect your momentum, people!

The power of habit
Những yếu tố gì tạo nên một thói quen?
Làm thế nào để xây dựng một thói quen?
Làm thế nào để bỏ một thói quen?


Bài viết này là suy nghĩ cá nhân của Zim, phản ánh góc nhìn của bản thân về thế giới xung quanh cũng như về cuộc sống vào thời điểm hiện tại. Và những góc nhìn đấy có thể thay đổi. Biết đâu vài năm nữa suy nghĩ của Zim lại khác. And it’s okay too!

School is just a stop, education is a lifelong thing. Exam ends, education doesn’t.

Hẹn cả nhà tuần sau nhé.
Take it easy,
Zim


REFERENCE
Nếu tôi có nhìn được xa hơn, thì cũng nhờ đứng trên vai của những người khổng lồ.

Empathy – Nguyễn Phi Vân
Almanack of Naval Ravikant – Education

World’s Most Toxic Boss

Zim từng có một người sếp lúc nào cũng chỉ chăm chú đợi mắc lỗi sai để mắng. Chắc thời gian nghe chửi còn nhiều hơn thời gian làm.

Sao em làm cái gì cũng hỏng thế? Em làm cái này còn không bằng mấy bạn mới ra trường.
Du học sinh về đều vô dụng thế này ah?
Hay mai nghỉ luôn đi. Khỏi đến!

Lần nào ngồi cafe với nhau anh bạn cũng hỏi — Sếp toxic như thế mà chưa nghỉ nữa hả? Anh ngạc nhiên là mày vẫn làm tới giờ đấy Zim.

Là bạn thì bạn có nghỉ không? Vậy tại sao Zim chưa nghỉ?

Vì không nghỉ được ạ.

‘Tìm sếp tốt’ chắc chắn nằm trong ưu tiên khi tìm việc của nhiều người.
Mà quên mất rằng mình dành phần lớn thời gian cùng với một người ‘sếp’ khác: inner voice (giọng nói trong đầu).

Đoạn đối thoại ở trên thực chất là cách tôi đã nói chuyện với bản thân mình nhiều năm trước. Mặc dù ‘bạn sếp’ trong đầu đã trở nên ấm áp hơn, lâu lâu sự toxic này vẫn lấp ló, quay lại bằng những cách khác nhau.

Toxic self-talk

Cách bạn nói chuyện với bản thân sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của bạn. And the earlier you realize this truth, the better.

We’ll be talking about:
1. Is your inner voice being a toxic asshole? (nhận thức về inner voice bản thân mình)
2. From Toxic Boss to The Best Goddamn Coach You’ll Ever Have
3. Develop your inner voice
– Surround yourself with better voices (những sách Zim đọc để phát triển inner voice của mình)
– How I talk to myself (cách Zim nói chuyện với bản thân)

Is your inner voice being a toxic asshole?

Mục tiêu của Zim là biến inner voice của mình thành một người bạn, một personal coach hợp với mình nhất. Zim hay tưởng tượng inner voice của mình là 1 con khỉ, trông hơi giống Tôn Ngộ Không (without the amour). Zim gọi bạn này là Monkey Zim.

Monkey Zim vừa có thể là một đứa rất là mean, hay rủ nằm chơi xem Netflix, nhưng vừa có thể là một người khôn ngoan, biết cách động viên khi đang buồn hoặc thất vọng về một điều gì đó.

Dưới đây là một số câu Monkey Zim hay nói khi toxic. Và Zim biết rằng mình không phải là người duy nhất.

‘Perfectionist’ Monkey Zim

  • Bài viết này chưa đủ thông tin rồi. Research tiếp đi Zim. Phải hoàn hảo. (Tôi lại lao đầu vào các rabbit hole khác nhau, ngộ độc thông tin mà mãi không xong bài)
  • Làm app thì phải làm cho tới. Users muốn gì là phải có đấy. Đây là 1001 extra features mà tớ vừa nghĩ ra. App phải thật hoàn hảo mới launch được.

‘Insecure’ Monkey Zim

  • Trình độ này không lead được ai đâu Zim ạ.
  • Mình không đủ khả năng làm vị trí này đâu Zim ơi. Sớm muộn gì mọi người cũng sẽ phát hiện ra thôi. Chuẩn bị tinh thần bị đuổi việc đi.
  • Mình đã xây dựng được công ty triệu đô chưa mà đòi nói về business. Không ai nghe đâu. Thôi dừng, please.
    (Tôi nhận ra là Monkey Zim nhiều lúc khắt khe với bản thân mình quá thể)

‘Lazy’ Monkey Zim

  • Hôm qua plan là 8h dậy mà bây giờ 10h30 rồi. Thôi bây giờ ngồi dằn vặt vậy, không làm gì nữa.
  • Giờ trễ rồi, mai làm cũng được. Netflix đi ông ơi.

‘Toxic’ Monkey Zim

  • Mình có bằng cấp gì mà đòi xin vào những vị trí như vậy? Ai mà chịu nhận?
  • Nhìn mấy bạn xung quanh có nhà có xe hết rồi kìa. Mà sao career của mình vẫn không đi tới đâu vậy?

Nhận thức (awareness) là bước đầu tiên sự thay đổi

Nhiều lúc, Zim không nhận ra sự toxic cho tới khi bắt đầu để ý mình đang nói những gì với bản thân, lắng nghe xem Monkey Zim đang sử dụng giọng điệu như thế nào — mắng mỏ? chỉ trích? hay là tích cực? động viên?

Zim nhận ra là Toxic Monkey Zim sẽ xuất hiện ở một số những trigger points sau:

  • Ngồi một đống ở sofa, xem tv hoặc cầm điện thoại xem Youtube. Do dậy muộn nên cảm giác cả ngày đã bị mất rồi, kệ luôn. Xong không kéo bản thân dậy làm cái gì cả?
  • Tự đẻ ra quá nhiều việc, không hoàn thành được cái gì cả? Như bài viết này chẳng hạn. Cứ mỗi một ngày trôi qua là Zim lại nghĩ thêm được một số ý để add vào (in a bad way, vì các ý đó lúc nghĩ ra thì hay mà cho vào thì cũng chẳng liên quan lắm). Version các bạn đang đọc chắc bằng 1 phần 5 lúc đầu.
  • Làm được một nửa việc rồi thấy nhiều thứ quá -> trốn đằng sau Perfection để không phải hoàn thành nốt.
  • Viết được một lúc đi vào ngõ cụt. Thấy các thể loại ý nó cứ cụt lủn. Văn phong con cóc. Bất lực. Muốn dừng lại. Trong đầu có 1001 các ý các nhau mà không sắp xếp được.

Và khi nhận ra Monkey Zim bắt đầu có hơi hướng toxic, Zim sẽ bảo ‘STOP, we are not going down that road again’, và reset lại inner voice của mình theo hướng tích cực hơn.

From Toxic Boss to The Best Goddamn Coach You’ll Ever Have

Các phương pháp phát triển bản thân như Visualisation, Dream Board, Manifestation, etc. đều xuất phát từ một nguyên tắc cơ bản: thay đổi cách bạn nói chuyện với bản thân mình.

Inner voice của mỗi người mỗi khác. Khi xem documentary The Last Dance về Michael Jordan, Zim thấy mindset của ông là ‘win at all cost, no matter what’. Mặc dù giọng nói này là một phần không nhỏ đưa Michael tới thành công, đây không phải là giọng nói Zim muốn có.

Nói cách khác, Zim không muốn vị coach của mình muốn thắng bằng mọi giá. Zim muốn phát triển inner voice thành một người huấn luyện viên có thể giúp phát triển theo những giá trị mà Zim mong muốn. To be the person I want to become.

Phần lớn cách chúng ta nói chuyện với bản thân tới từ môi trường xung quanh. Có thể từ bố mẹ, giáo viên. Bố mẹ ta cũng được nghe những điều này từ bố mẹ (ông bà), thầy cô giáo của họ. Chúng ta nghe từ những khuôn mẫu mà xã hội áp đặt qua quảng cáo, báo đài, youtube, facebook, etc.

Theo Zim nghĩ, điều tuyệt vời nhất cha mẹ có thể làm cho con của mình là giúp chúng phát triển những inner voice thông thái, những giọng nói sẽ luôn chỉ dạy con họ những điều đúng đắn, mọi lúc mọi nơi.

Đây cũng là lý do tại sao chúng ta muốn ở bên những người coach, mentor tuyệt vời. Vì khi đó chúng ta sẽ ‘hấp thụ’ sự khôn ngoan của họ, và giọng nói của họ dần đần trở thành inner voice của chính chúng ta.

Develop your inner voice

Là một người (hơi) introvert, Zim không gặp và trao đổi với nhiều người. Vì vậy, Zim tìm mentors của mình ở sách, audio books và podcasts.

Surround yourself with better voices

Thật ra hồi trước Zim thích đọc vừa vừa. Hồi bé có ngấu nghiến Harry Potter và Eragon thôi chứ còn sách non-fiction là không bao giờ động vào. Còn nhớ mê đọc truyện tranh nữa. Mấy hôm trùm chăn đọc Vua Pháp Thuật trong chăn xong bị mẹ phát hiện mắng cho một trận.

Mấy năm trở lại đây Zim mới bắt đầu đọc sách non-fiction. Điều này đồng nghĩa với việc Zim được exposed tới nhiều giọng nói khác nhau, cùng những góc nhìn khác nhau.

Tất nhiên là việc đọc không dành cho tất cả mọi người. Nhiều người thích xem. Nhiều người thích nghe. One way or another, find your voice models!

Nhưng nếu bạn là một người thích đọc, một tip về đọc sách mà Zim đang cố gắng học: It’s better to find a book worth reading 100 times than read 100 books.

Zim đang note lại dần những quyển sách nào sẽ vào list đọc đi đọc lại của mình. Một số quyển Zim vừa đọc gần đây mà thấy siêu tốt cho việc phát triển inner voice của bản thân mình:

Mindset of amazing people (autobiographies)

  • Open: An Autobiography — Andre Agassi
  • The Ride of a Lifetime: Lessons Learned from 15 Years as CEO of the Walt Disney Company — Robert Iger
  • Shoe Dog: A Memoir by the Creator of Nike — Phil Knight

Philosophy. Perspective of life, of happiness

  • The Way to Love: Meditations for Life — Anthony de Mello
  • Think on These Things — J. Krishnamurti

Tackling insecurity to produce creative work. Hiding behind perfectionism

  • Bất cứ cái gì produced by Seth Godin (podcast, books, blog posts, etc.)
  • Show Your Work — Austin Kleon
  • The War of Art — Steven Pressfield

HOW I TALK TO MYSELF

When upset
Deep breath – This is not the end of world. (Trong đầu sẽ tưởng tượng zoom out ra thấy mình bé xíu xíu, thế giới siêu rộng và có bao nhiêu sự việc khác đang xảy ra)

– Nhận ra rằng nhiều lúc cũng không cần có nghĩa gì cả. Just BE. Like a bird in the sky, or a tree, a flower on the ground.

When angry at someone
– Họ cũng chỉ là một người khác trên Trái Đất này cùng với những tham vọng, các mối quan hệ và những nỗi sợ hãi, lo lắng của riêng họ. Chẳng qua là mình với họ không hợp thôi.

(They are just another human on this, so called, Earth. Who have their own ambitions, relationships and insecurities. Không hợp! That’s all. Treat them with respect, and move on.)

When angry/irritated with a loved one
One day, I won’t be able to hear them or get angry at them anymore. And that day is not as far away as I would think. Sau này có muốn nghe mắng cũng không được.

When tackling shyness and insecurities
– Nếu một trong số những điều mình nói có thể giúp thay đổi cuộc sống của một người thôi cũng đáng để làm rồi. (Câu thần chú này Zim học từ Susan Cain, Quiet)

You could leave life right now (Marcus Aurelius, Meditations) — câu này giúp Zim nhận thức được sự nhỏ bé của những thứ Zim đang sợ, cũng về cuộc đời ngắn ngủi của mình.

When compare myself to others
It’s about getting better than your ‘yesterday’ self. You are competing with yourself, no one else matters.

_“Don’t compare yourself with anyone in this world. If you do so, you are insulting yourself.” — Bill Gates.

When being impatient with results (sao mãi không thấy kết quả?!)
Wealth and success takes time

Focus on the value that you are bringing, the ‘giving’, rather than the rewards, the ‘taking’

BONUS: Thay đổi cách giải thích những thất bại của bản thân

We hate failure and rejection. It feels terrible. Cũng đúng thôi. Tưởng tượng bây giờ là năm 200 TCN, Zim bị đuổi khỏi bộ lạc và bơ vơ một mình giữa sa mạc (Survival chance = ZERO!). Mẹ Tự Nhiên đã lập trình cho con người việc ghét hai từ này. Và sự lập trình này cũng là lý do mà Monkey Zim nhiều lúc mean lắm!

Để xử lý vấn đề này, Zim có thể thay đổi cách bản thân giải thích những thất bại của mình bằng 3Ps (học từ Masterclass của Daniel Pink).

Personal
‘Urgh, it’s all my fault.’ – Có lẽ mình có thể làm tốt hơn chút nữa thật. Nhưng chắc chắn còn những lý do khác nữa: công ty có 1 ứng viên khác giống hệt mình, hoặc khách hàng có một dự án khác ưu tiên cao hơn, chưa đầu tư vào ý tưởng này được, etc. -> Ask yourself: Is this personal? Đa phần là không có gì 100% là lỗi của bạn cả, hãy nghĩ về những lý do khác mà dẫn tới việc kết quả không xảy ra như ý muốn (không được đổ lỗi cho người khác though, lý do khách quan thôi nhé)

Pervasive
‘Urgh, this always happens.’ – Thật ra mà nói, chẳng có gì lần nào cũng thế cả. -> Những lúc này, Zim sẽ cố nghĩ về những lần mình đạt được goal của mình (dù lớn hay nhỏ). Zim nhớ về lúc đỗ đại học, lúc được nhận qua Hàn. Thật ra, cũng có nhiều lúc mình đạt được mục tiêu đã đặt ra mà.

Có thể lần này không được, nhưng chắc chắn là không phải lúc nào cũng thất bại cả. Zim tự viết mấy cái success ra để lúc nào fail còn nhớ ngay được.

Permanent
‘Urgh, it’s going to ruin everything.’ — Thật sao? Everything? Thật ra rất ít thứ có thể ‘ruin everything’. It’s not the end of the world! -> Is it really gonna ruin everything? Is this really permanent? Because most things are not.


Thank you for getting to this point.
What about you? How do you want to talk to yourself today?

Hẹn cả nhà vào thứ 3 tuần sau. Chúng mình sẽ discuss về Trường Học Tương Lai nhé.

Take it easy,
Zim


References
Nếu tôi có nhìn được xa hơn, thì cũng nhờ đứng trên vai của những người khổng lồ.

Marcus Aurelius – Meditations
https://tim.blog/2020/12/30/jim-loehr-2-transcript/
https://tim.blog/2019/01/28/the-tim-ferriss-show-transcripts-susan-cain/
Daniel Pink – Masterclass.com
Do chưa học vẽ tới nơi tới chốn, Zim có sử dụng và bắt chước các illustrations của artist mình rất thích là @chrishallbeck. Please check them out!

So Good They Can’t Ignore You by Cal Newport

Overall score: 7/10
Readability: 9/10
Impact: 8/10

“So good they can’t ignore you” không phải là cẩm nang làm thế nào để đạt được thành công. Cuốn sách chia sẻ một góc nhìn mới mẻ và thực tế, trong một xã hội tán dương việc đi tìm “đam mê” của mình.

Rất có ích, đặc biệt đối với những người mơ mộng (như tôi) và các bạn đang lo vì mãi không biết đam mê của mình là gì.

Theo đuổi đam mê là một lời khuyên có hại nhiều hơn lợi

The passion hypothesis convinces people that somewhere there’s a magic “right” job waiting for them, and that if they find it, they’ll immediately recognize that this is the work they were meant to do. The problem, of course, is when they fail to find this certainty, bad things follow, such as chronic job-hopping and crippling self-doubt.

Lời khuyên ‘Theo đuổi đam mê’ thuyết phục chúng ta rằng có một công việc trong mơ đang ở ngoài kia đang chờ đợi bạn. Và khi tìm mãi không thấy, tất cả những gì bạn còn lại là danh sách nhảy việc liên tục, sự buồn chán, mông lung và bệnh nghi ngờ bản thân mãn tính.

Thay vì chạy theo đam mê, tác giả giới thiệu tới người đọc về career capital (tôi tạm dịch là ‘Vốn Nghề’).

Giới thiệu về Vốn Nghề (Career Capital)

Great work are rare and valuable. If you want great work in your own life, you need rare and valuable skills or ‘career capital. The foundation of constructing work you love is acquiring a large store of this capital.

Great work* rất hiếm. Để tìm được great work, bạn cần những kỹ năng hiếm và có giá trị để đổi lại. Tác giả gọi những kỹ năng hiếm và nhiều giá trị này là vốn nghề. Và bạn cần bắt đầu xây dựng vốn nghề của mình.

*Định nghĩa của ‘công việc tuyệt vời’ mỗi người một khác, mỗi giai đoạn một khác. Trong summary này tôi sẽ sử dụng ‘great work’ để nói về công việc yêu thích mà bản thân bạn khi làm cảm thấy hạnh phúc và có ý nghĩa.

Vốn nghề càng lớn, khả năng bạn tìm được great work càng cao.

If your goal is to love what you do, your first step is to acquire career capital. Your next step is to invest this capital in the traits that define great work.

Tác giả tranh luận rằng control (sự tự do, sự kiểm soát) là một trong những yếu tố được ao ước nhất khi mọi người được hỏi về các ‘công việc trong mơ’ của mình. Bạn sẽ gặp nhiều người thành công (ở các ngành nghề khác nhau) sử dụng sự tự do này để làm những việc mà họ muốn. 

Tuy nhiên, hành trình để tìm được control không hề dễ dàng.

The first control trap: Control that’s acquired without career capital is not sustainable.

Bẫy control đầu tiên: tự mở business của mình thì tự do đấy, nhưng không bền và chắc chắn nếu không có career capital.

Ví dụ tôi bây giờ nghỉ việc để mở một lớp yoga tại nhà và tất cả những gì tôi có là một bằng đi dạy mới được cấp. Khả năng thành công của Zim Yoga chắc sẽ gần như là zero, so với lớp của chị bạn, người đã thực hành yoga hơn 10 năm, thỉnh giáo yogi ở Ấn Độ một năm 2 3 lần.

Sự khác biệt ở đây là tôi chưa xây dựng đủ vốn nghề (những kỹ năng hiếm và có giá trị) cần thiết để tăng khả năng thành công của mình.

The Second Control Trap The point at which you have acquired enough career capital to get meaningful control over your working life is exactly the point when you’ve become valuable enough to your current employer that they will try to prevent you from making the change.

Bẫy control thứ 2 được tác giả đề cập tới là khi bạn đã xây dựng được một lượng vốn nghề đủ, lúc đó cấp trên sẽ muốn bạn tái đầu tư những vốn nghề này vào lại công ty của họ, cho bạn nhiều tiền và danh vọng, thay vì để bạn đi tìm control.

Ví dụ: một số designer có tiếng trong nghề tách ra làm freelance, thay vì nhận công việc lương thưởng cao ở các công ty thiết kế lớn. Khi phải đưa ra sự lựa chọn, họ ưu tiên đầu tư career capital của mình để lấy được nhiều control so với những benefit khác.

Việc hiểu được giá trị của control sẽ thay đổi cách bạn đánh giá những cơ hội việc làm khác nhau. Khi đó, sự tự do phát triển, tự chủ trong công việc mà vị trí đem lại cũng quan trọng không kém gì mức lương hoặc danh tiếng của công ty.

MENTAL MODEL :The Law of Financial Viability (có kiếm tiền được hay không)

When deciding whether to follow an appealing pursuit that will introduce more control into your work life, seek evidence of whether people are willing to pay for it. If you find this evidence, continue. If not, move on.

Khi quyết định có nên theo đuổi một quyết định hấp dẫn sẽ mang lại nhiều control hơn, hãy tìm những bằng chứng liệu mọi người có sẵn sàng trả tiền cho nó hay không.  Nếu bạn tìm thấy, hãy tiếp tục.  Nếu không, hãy bỏ qua.

“Do what people are willing to pay for”

Derek Sivers

Xây dựng Career Capital

Passion Mindset vs. Craftman Mindset

If you want to love what you do, abandon the passion mindset (“What can the world offer me?”) and instead adopt the craftsman mindset (“what can I offer the world?”)

Lăng kính ‘đam mê’ thường đưa ra những câu hỏi khó nhằn như – “Tôi là ai?” hoặc “Tôi thực sự đam mê cái gì?”. 

“Đây có phải là con người thật của tôi?” hay “Tôi có yêu công việc này thật không?” hiếm khi cho chúng ta một câu trả lời rõ ràng.

Nói một cách khác, passion mindset thường luôn làm cho chúng ta không hạnh phúc và mông lung về bản thân.

Thay vì nhìn qua lăng kính ‘đam mê’, chúng ta nên tiếp cận công việc của mình dưới góc nhìn của một nghệ nhân (craftmen mindset).

“Tôi có thể đóng góp những giá trị gì?”

Khi tư duy như một nghệ nhân, bạn tập trung không ngừng vào những giá trị bạn có thể đem lại cho xã hội và những người xung quanh, thay vì ‘xã hội sẽ cho tôi cái gì?’.

Put aside the question of whether your job is your true passion, and instead turn your focus toward becoming so good they can’t ignore you. That is, regardless of what you do for a living, approach your work like a true performer.

Phần khó nhất là việc thúc đẩy bản thân mình ‘do the work’, ép việc liên tục rèn luyện những kỹ năng hiếm và nhiều giá trị.

Trước khi tiếp tục, tránh xa những công việc mà bạn khó có thể phát triển craftman mindset, qua đó xây dựng và đầu tư vốn nghề của mình:
1.  Công việc có ít cơ hội để phát triển những kỹ năng hiếm và có giá trị. → khó để phát triển bản thân
2.  Công việc tập trung vào những thứ bạn cảm thấy vô giá trị hoặc có hại cho xã hội. → khó để tìm thấy ý nghĩa trong việc mình làm
3.  Công việc mà bạn phải làm việc với những người mình thực sự không thích. → khó để làm việc lâu dài 

Kỹ năng quan trọng nhất mà bạn sẽ học: Deliberate Practice (luyện tập có chủ ý)

Deliberate practice: an approach to work where you deliberately stretch your abilities beyond where you’re comfortable and then receive ruthless feedback on your performance.

Thành công không chỉ nằm ở việc bạn luyện tập bao nhiêu tiếng, mà còn phụ thuộc vào bạn làm gì trong những tiếng luyện tập đó.

Không chỉ có nghệ sĩ piano, vận động viên, hay kì thủ cờ vua. Sự tập trung vào việc vượt qua giới hạn của bản thânviệc nhận được phản hồi ngay lập tức là chìa khóa để xây dựng career capital trong hầu hết mọi lĩnh vực.

Deliberate practice requires focus and concentration.

Cái gì khó và mới thì sẽ luôn làm ta ngại vì ‘nặng đầu’ (mental strain). Tuy vậy, tác giả ví strain giống với việc đau người sau khi tập gym: bạn đang tiến bộ dần lên đó. 

Nếu tìm ra cách tích hợp deliberate practice vào cuộc sống của chính mình, bạn có khả năng trở nên vượt trội so với những người khác và nhanh chóng trở nên ‘so good they can’t ignore you’.

What are the ‘ability stretching’ activities for your current career?

Xác định kỹ năng để phát triển (finding your career capital)

1.  Xác định xem mình đang thuộc market place nào
Có 2 loại thị trường kỹ năng chính: winner-take-all và auction.

•  Winner-take-all: chỉ có một kỹ năng quan trọng, và rất nhiều người sẽ cạnh tranh cho capital này. 
Ví dụ của tác giả: viết kịch bản phim truyền hình là một thị trường winner-take-all vì tất cả những gì quan trọng là khả năng viết kịch bản của bạn. Tất cả những thứ còn lại không quan trọng.

•  Auction: có nhiều career capital khác nhau và mỗi người có thể tạo ra một bộ sưu tập các kỹ năng chỉ riêng họ có.
Ví dụ Elon Musk là kết hợp giữa business, engineering, vật lý, etc. Hay Seth Godin là kết hợp của background làm nhà xuất bản, marketing và viết sách, etc.

2.  Xác định capital type của bản thân.
Bạn nên tìm những cánh cửa đã mở sẵn – những cơ hội xây dựng career capital mà bạn đang có sẵn (ngành học, công việc hiện tại, những mối quan hệ, etc.).

Những ‘cánh cửa đã mở sẵn’ này sẽ giúp bạn đi xa và nhanh hơn nhiều so với bắt đầu từ đầu ở một mảng hoàn toàn mới.

Đi tìm Personal Mission (sứ mệnh cá nhân)

1. Sai lầm khi tìm personal mission khi không có career capital

Một trong những tính chất của great work là nó luôn đồng nhất (aligned) với sứ mệnh cá nhân của bạn. Tuy nhiên, bạn không thể đi đường tắt để tìm được một sứ mệnh tuyệt vời. Việc cố gắng đặt ra sứ mệnh khi bạn mới tham gia vào một lĩnh vực và thiếu career capital sẽ không tránh được sự thất bại.

2. Hiện thực hoá sứ mệnh của bạn (bằng việc thực hiện thành công các dự án)

Khi bạn xác định được một nhiệm vụ chung của mình, tiếp theo sẽ là việc hiện thực hoá nó qua việc khởi động các dự án cụ thể. 

Một chiến lược hiệu quả là thử các bước nhỏ – little bets – để nhận những phản hồi cụ thể và sau đó sử dụng phản hồi này để giúp tìm ra những gì cần thử tiếp theo. 

Các little bets có những tính chất như sau:
•  Dự án đủ nhỏ để hoàn thành dưới 1 tháng,
•  Dự án ép bản thân phải tạo ra những giá trị mới (vd: học một kỹ năng mới, create something from nothing, etc.)
•  Dự án có kết quả cụ thể mà bạn có thể thu thập được những phản hồi cụ thể. 

For a project to transform a mission into a success, it should be remarkable in two ways. First, it must literally compel people to remark about it. Second, it must be launched in a venue conducive to such remarking.

Để một dự án thành công, dự án đấy nên thực hiện thật tốt được 2 điều:
•  Phải đủ lạ và đặc biệt để người khác chia sẻ. (Tác giả lấy ví dụ một lập trình viên viết phần mềm tự viết nhạc lo-fi thay vì handbook về các đoạn code phổ biến. Đây là ‘Purple Cow’ thay vì normal brown cow mà Seth Godin nói tới trong cuốn “Purple Cow”)
•  Được chia sẻ trên những nơi (trang web, diễn đàn, etc.) mà khán giả sẽ appreciate và chia sẻ dự án đó.

Final Thoughts

Working Right Trumps Finding the Right Work.

Nhìn chung, tác giả khuyến khích các bạn đừng cố gắng tìm việc qua lăng kính ‘đam mê’, mà thay vào đó, đưa ra một số công cụ cụ thể để đánh giá và ‘check-in’ tình trạng hiện giờ của mình.

“So good they can’t ignore you” kéo người đọc ra khỏi những mơ mộng về ‘overnight job satisfaction’ và gửi gắm một cái nhìn thực tế hơn về cách tìm great work trong cuộc sống.

Những ví dụ thực tế của tác giả tìm được great work không qua việc tìm kiếm cái mình đam mê, mà ngược lại, bằng việc trở nên thật giỏi (doing their work well) và sau đó, sử dụng career capital mà họ tích luỹ được để đạt được chúng.

Don’t obsess over discovering your true calling. Instead, master rare and valuable skills. Once you build up the career capital that these skills generate, invest it wisely. Use it to acquire control over what you do and how you do it, and to identify and act on a life-changing mission. This philosophy is less sexy than the fantasy of dropping everything to go live among the monks in the mountains, but it’s also a philosophy that has been shown time and again to actually work.


See you on the next one.
Zim

Động Lực Của Con Người (Pt.1)

Trong series gồm 3 phần này, tôi sẽ breakdown 5 động lực cơ bản nhất hình thành hành vi của khách hàng. Let’s dive in.

Ý nghĩa của cuộc sống là gì?

Về cơ bản, ‘Cuộc sống trên Trái Đất’ chỉ xoay quanh một mục tiêu duy nhất: Sự sống còn của Gene.

Điều này gồm 2 phần: giữ được cho chủ thể (host) của gene khoẻ mạnh, an toàn và tìm được 1 đối tác để sinh sản (reproduce), duy trì gene từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Strong & healthy tôm

Đối với gene thì khá là đơn giản, nhưng đối với chủ thể của gene thì mọi thứ hơi căng thẳng hơn một tí.

Và từ hàng triệu năm nay, động vật sống sót nhờ não nguyên thuỷ. Ở đây, tôi tạm gọi là con Tối Cổ. 

Tối Cổ không biết gì nhiều ngoài những thứ Mẹ Tự Nhiên đã dạy nó, cùng với nhiệm vụ cơ bản:

 •  giữ cho chủ thể khoẻ mạnh;

 •  tránh xa nguy hiểm; và 

 •  tìm được bạn đời để reproduce (sinh sản, duy trì gene).

Tối Cổ sử dụng bảng điều khiển để điều chỉnh trạng thái, qua đó điều khiển động lực của chủ thể.

Và tất cả động vật đều hoạt động dưới bàn tay của Tối Cổ và chiếc remote của nó..

Nhưng khoảng 70000 năm trước, có một loài động vật thử sử dụng một cơ chế sinh tồn mới có tên gọi là High Intelligence (Trí tuệ cao). Và loài động vật này, you guessed it, là con người.

Trước giờ chưa có loài nào sử dụng defense mechanism này vì high intelligence sử dụng rất nhiều năng lượng. (Hazana Herculano-Houzel có một Ted Talk rất hay về bộ não con người và việc tại sao nấu ăn là điều giúp chúng ta có thể duy trì được lượng nơ ron thần kinh khủng khiếp này)

Từ đó, khác với các động vật khác, con người xuất hiện thêm một bộ não thứ 2 – Trí Tuệ (tư duy, dự đoán etc.). Tôi tạm gọi là.. anh Trí.

Mối quan hệ giữa anh Trí và Tối Cổ như là chủ và con pet gấu vậy. Con pet này chỉ cần được ăn uống no đủ và không bị quạu thì mọi thứ sẽ yên bình.

Còn không, Tối Cổ sẽ đốt khói mịt mù. Chiếm lấy quyền kiểm soát của anh Trí. Chủ thể mất kiểm soát, hay chúng ta hay gọi trạng thái này là fight or flight.

Mọi hành vi của chúng ta đều xuất phát từ sự giằng co giữa anh Trí và Tối Cổ.

Feynman nói: “Nature uses only the longest threads to weave her tapestry.” (“Thiên nhiên luôn sử dụng những sợi chỉ dài nhất để dệt tấm thảm cuộc sống.”)

Chúng ta chỉ cần hiểu một số principles (nguyên tắc) cơ bản là có thể giải thích được mọi thứ quanh mình.

Những người thành công đều biết rằng, thị trường sẽ thưởng công xứng đáng cho những người có những đánh giá và quyết định tốt nhất. Và việc hiểu được những nguyên tắc cơ bản này là vũ khí bí mật của họ.

Chúng ta cùng khám phá nhé.

Part 1
Control & certainty
Costly Signalling

Part 2
Comparative
Subconscious Hacking
Psychophysics

Part 3
Summary và cách áp dụng những principles này trong công việc.

I. Tối Cổ luôn thích control (kiểm soát) và certainty (sự chắc chắn)

“look at those juicy berries”

Mặc dù nhìn ngon lành và bổ dưỡng, Tèo biết là khi leo lên hái, rất có thể sẽ ngã chết luôn. 

Giả sử xác suất ngã là 1 trong 100 lần (1%).

Dù xác suất rất thấp, nhưng nếu cứ tiếp xúc với nhiều rủi ro như thế này, tầm 1 năm là Tèo ra khỏi gene pool mất.

Vậy nên, để tránh cho chủ thể Tèo… tèo, Tối Cổ sẽ chiếm lấy quyền kiểm soát, và làm cho xác suất nguy hiểm trông như thế này.

Cùng theo đó là một loạt các tín hiệu cảm xúc khác như ‘run cầm cập sợ độ cao’ được phát ra để ngăn việc chủ thể của gene tham gia vào những hoạt động có thể chết người.

Tất cả chúng ta đều sợ mất mát, và thích những cái gì đó an toàn.

Rất nhiều lý thuyết nổi bật trong tâm lý đều thuộc Need for Control and Fear of Loss.

•  Prioritise certainty: luôn ưu tiên sự an toàn (safety and security) – khách hàng thường quay lại sử dụng brand mà mình đã dùng rồi, tôi thường ăn đi ăn lại ở những quán mình đã từng ăn trước đây, etc.

•  Định giá quá cao (overvalue) những thứ mình sở hữu (hay gọi là Endowment effect). Một hành động nhỏ làm cho khách hàng cảm thấy họ đã là chủ của món hàng (cầm, nắm, mặc thử đồ, hay nghe người bán hàng hỏi về bạn sẽ trang trí ngôi nhà của mình như thế nào) có thể là yếu tố quyết định giữa việc bán được hàng hay không.

•  Loss Aversion: muốn tránh mất mát bằng mọi giá. Thay vì tặng voucher giảm 1 triệu, brand có thể reframe (thay đổi cách trình bày) lại thành ‘tài khoản của bạn hiện có 1.000.000đ và sẽ biến mất trong 30 ngày nếu không sử dụng’.

•  Social Copying: đã có nhiều người sử dụng sản phẩm này, it must be good and safe to use.

Lựa chọn ‘tốt nhất’ (đôi khi) không bằng lựa chọn ‘không tệ nhất’

Satisficing, đặt ra bởi Herbert Simon, kết hợp giữa ‘satisfy’ (thoả mãn) và ‘suffice’ (đủ). 

Tôi tạm gọi là ‘vừa đủ tốt’

Vì sống môi trường xung quanh nhiều ẩn số (uncertainty), Tối Cổ sẽ ưu tiên những sự lựa chọn mà nó biết rõ là an toàn, như việc chọn ăn đồ ăn ít ngon hơn việc phải trèo vách đá.

Giả sử Tèo (của thế kỷ 21) đang chọn giữa 2 cái tivi đều tương đồng về kích cỡ và chất lượng hình ảnh. Một là của Samsung, cái còn lại là của một brand Tèo chưa nghe tên bao giờ (let’s call it Xiao Me) – và rẻ hơn khoảng 4 triệu.

Cùng nhìn ví dụ này qua lăng kính Satisficing nhé.

Theo kinh tế học, Xiao Me là lựa chọn tốt nhất vì rẻ hơn lựa chọn Samsung y hệt còn lại. Tuy nhiên, Tèo chọn Samsung thay vì Xiao Mee không phải vì tivi của Samsung tốt hơn, mà là vì Tèo chắc chắn Samsung là lựa chọn an toàn. (Tivi không tự nhiên hỏng, nhiễu liên tục, etc.)

Chúng ta cũng phải hiểu thêm một điều nữa là Tèo không đưa ra quyết định này một cách có ý thức. Chúng ta thường nghĩ rằng mình đang so sánh và đánh giá các tiêu chí khác nhau, nhưng đây chỉ là những tính toán mà anh Trí có thể hiểu (make sense) được.

Khách hàng thường sẵn sàng trả (rất nhiều) tiền để loại bỏ sự không chắc chắn (uncertainty).

Ideally, chúng ta đều muốn mua chiếc tivi tốt nhất, nhưng thực ra, tránh mua phải một cái tv ‘dễ hỏng’ quan trọng hơn nhiều. 

OK.. Tèo.

Mặc dù tên thương hiệu hiếm khi đảm bảo đây là sản phẩm tốt nhất bạn có thể mua, nhưng nói chung, brand name như Samsung vẫn là một chỉ số đáng tin cậy rằng sản phẩm sẽ không quá tệ.

Samsung đã dành nhiều công sức xây dựng uy tín và ra tín hiệu cho khách hàng về độ ổn định của sản phẩm của mình.

Doanh nghiệp càng có nhiều ‘vốn’ uy tín (reputational capital) để mất, thì ta càng tin tưởng vào việc kiểm soát chất lượng của họ.

Và cùng với Samsung, chúng ta cùng tới, trong ý kiến của tôi, một trong những principles quan trọng nhất của tâm lý học hành vi: COSTLY SIGNALLING (tín hiệu tốn kém)

II. COSTLY SIGNALLING – tín hiệu tốn kém 

Để duy trì cho gene bất tử, chủ thể không những survive (sống sót) mà còn phải tìm đối tác phù hợp để reproduce (sinh sản) nữa

Tất cả các sinh vật giao tiếp (communicate) những giá trị của mình bằng cách ‘ra tín hiệu’ (signalling).

‘Khả năng sống sót của tôi cao tới mức có thể phí phạm (waste) năng lượng và tài nguyên vào những thứ như màu sắc sặc sỡ và kích cỡ cơ thể.’

Ngược lại, hoa quả (muốn được động vật ăn) và hoa (muốn thu hút côn trùng) có hình dáng, màu sắc dễ nhận biết để khuyến khích khách hàng của mình quay lại nhiều lần (repeat visits).

If you think about it, hoa thực ra là cây cỏ dại với nhiều marketing budget.

Quay lại tới con người, chúng ta sử dụng các tín hiệu để giao tiếp những qualities mà xã hội nói chung hoặc bày đàn (của bạn) đánh giá là quan trọng. 

Những phẩm chất này có thể là tiền, quyền lực, vẻ đẹp, khả năng sáng tạo, độ nổi tiếng, hành động lãng mạn, trí thông minh,…

Con người làm tất cả những điều này để (1) tăng khả năng sống sốt trong bày: người alpha chứng tỏ vị thế và những người beta chứng tỏ mình có ích cho alpha; và (2) tăng khả năng tìm được bạn đời phù hợp.

Chúng ta sẽ không gửi email để mời bạn tới dự đám cưới của mình, mà sẽ là gửi thiệp được design và in một cách cẩn thận, tỉ mỉ. 

Email truyền tải thông tin, nhưng độ tốn kém (tiền bạc hoặc sự sáng tạo) truyền tải ý nghĩa (trong trường hợp này là ‘bạn rất quan trọng đối với tôi’).

Ý nghĩa (meaning) được truyền đạt qua những việc ta làm không nhằm mục đích tư lợi ngắn hạn (short-term self-interest), mà là qua những chi phí mà ta đã bỏ ra và qua những rủi ro mà ta chấp nhận.

Tản mạn thêm một chút về Costly Signalling trong business – Continuity Probability Signalling

Continuity Probability Signalling – tín hiệu mong muốn khách hàng tiếp tục quay lại (hoặc 2 đối tác tiếp tục làm việc với nhau, hoặc 2 nhà thông gia tiếp tục mối quan hệ lâu dài).

Ciao Bella là một địa điểm hẹn hò yêu thích của tôi. Ngoài không gian ấm cúng và đồ ăn ngon, Ciao Bella luôn biết làm thực khách của mình cảm thấy đặc biệt.

Khi vừa ngồi xuống, bạn sẽ được chào đón bằng một ly prosecco. Và sau khi thưởng thức đồ ăn tới… ‘díp cả mắt’ lại, các bạn nhân viên sẽ đem ra những shot limoncello để kết thúc bữa ăn.

Nhìn từ góc độ kinh tế học đơn giản và ngắn hạn (short-term), việc Ciao Bella phục vụ rượu miễn phí không có ý nghĩa một chút nào.

Tuy nhiên, trên phương diện signalling, đây là tín hiệu rằng nhà hàng muốn bạn quay trở lại lần sau. Ciao Bella đang hành động trên long-term interest (cơ sở tư lợi lâu dài), chứ không phải mục đích ngắn hạn.

Một công ty sẵn sàng dành thời gian hỏi thăm sau khi bạn đã mua sản phẩm để đảm bảo rằng bạn không thất vọng có thể sẽ đáng tin cậy và tử tế hơn là một công ty ‘bơ’ ngay sau khi bạn trả tiền.

Một điểm lạ lùng nữa: nếu khách hàng gặp vấn đề và brand giải quyết vấn đề đó một cách thoả đáng, khách hàng đó sẽ trở nên trung thành hơn, so với trường hợp không gặp vấn đề ngay từ đầu.

Bằng việc tự bỏ chi phí để giải quyết vấn đề cho bạn, brand ra tín hiệu rằng họ coi trọng bạn và muốn tiếp tục mối quan hệ này trong tương lai.

Sử dụng Signalling như một công cụ trong Decision Making của team

Đối với tôi, “trải nghiệm khách hàng tuyệt vời” là một khái niệm rất mơ hồ, khó có thể truyền đạt được lại cho team. Mà good execution sẽ xuất phát từ việc có định hướng và yêu cầu rõ ràng.

Chúng ta có thể đặt ‘tín hiệu tốn kém’ ở đâu trong customer journey của mình?

Tôi muốn chia sẻ một góc nhìn khác. Một góc nhìn ‘thực dụng’ khi xây dựng trải nghiệm khách hàng.

Chúng ta có thể đặt ‘tín hiệu tốn kém’ ở đâu trong trải nghiệm để ra hiệu tới họ rằng: “chúng tôi muốn bạn quay lại và sử dụng tiếp sản phẩm, dịch vụ của mình.”

Để tạm kết ở đây, cùng tôi hãy thử nhìn qua lăng kính của Signalling. 

•  Sản phẩm, dịch vụ và trải nghiệm của công ty bạn hiện đang signal điều gì tới khách hàng của mình? 

•  Bạn muốn signal gì tới khách hàng của mình? 

•  Khách hàng của bạn (ý thức hoặc trong tiềm thức) muốn signal điều gì tới người xung quanh, tới chính bản thân họ?

Hẹn bạn ở phần 2 nhé.

References

Nếu tôi có nhìn được xa hơn, thì cũng nhờ đứng trên vai của những người khổng lồ.

Alchemy – Rory Sutherland
Predictably Irrational – Dan Ariely
The Story of Us – https://waitbutwhy.com/2019/08/story-of-us.html

Do chưa học vẽ tới nơi tới chốn, tôi có sử dụng và bắt chước các illustrations của 2 artists mình rất thích là @wawawiwacomics và @chrishallbeck. Please check them out!

Tản mạn về ảnh hưởng của các lựa chọn “chim mồi” tới quyết định của bạn

Đang nằm trên sofa xem Friends lần thứ n thì điện thoại ‘ting ting’ tin nhắn.

“Anh ơi hôm nay đi ăn gì nhỉ?”

Vừa nãy xem feed vừa bị triggered hình burger nên giờ muốn chạy ra Marcel làm một cái Cheese Burger ăn kèm với một ít naughty cheesy bacon-y fries ngon lành.

Thật ra, có rất nhiều điểm chung giữa việc chọn hôm nay ăn gì, bán hàng và trình bày ý tưởng cho sếp của bạn.

Vậy làm thế nào để mọi người chọn đề xuất của mình nhiều hơn?

Hôm nay ta cùng tìm hiểu về ‘hiệu ứng chim mồi’ và liệu bạn gái tôi có chọn ăn ở Marcel không nhé.

Ai cũng thích đi club cùng đứa bạn xấu hơn mình một chút.

Nếu để ý, việc bạn đẹp hay xấu, tự tin hay tự ti về bản thân (giá trị nhận thức – perceived value) đôi khi phụ thuộc vào những người mình đi cùng (bối cảnh – context).

Độ hấp dẫn của thứ được chọn bị ảnh hưởng bởi sự so sánh với những thứ còn lại mà ta không chọn.

Có thể hôm đấy bạn không quá đẹp.
Nhưng sẽ luôn được ‘hỗ trợ’ khi đi với người anh em.

Một trường hợp khác. Tưởng tượng bạn đang đứng ở CGV mua bắp cùng nàng, phim bắt đầu trong 5 phút mà còn chưa đi tè nữa. Mua cỡ nào bây giờ?

Cân bằng giữa 2 lựa chọn (mặc dù đa phần ta sẽ chọn bắp nhỏ vì an toàn hơn)

Khi đứng giữa 2 lựa chọn, quyết định cuối cùng của chúng ta bị ảnh hưởng khi được giới thiệu thêm lựa chọn thứ 3 – ‘chim mồi’ của chúng ta.

‘Chim mồi’ tạo ra sự bất cân bằng khi làm người mua cảm thấy bắp lớn ‘đáng tiền’ hơn. (thêm 3k là được size to nhất, quá good value for money luôn)

‘Chim mồi’ hoạt động như thế nào?

Trong thí nghiệm tuyệt vời (và rất quan trọng) của Dan Ariely về ‘hiệu ứng chim mồi’, độc giả đứng trước 2 lựa chọn khi đăng ký mua báo.

Báo điện tử ($59) hoặc combo báo điện tử + báo giấy ($125)
68% chọn option rẻ (an toàn) hơn.

Ở một nhóm khác, Dan giới thiệu thêm một lựa chọn ‘chim mồi’ ở giữa: báo giấy ($125)

Số lượng chọn combo báo điện tử + báo giấy nhảy từ 32% lên 84%!
(16% còn lại chắc không đội trời chung với … giấy)

Sự hiệu quả của ‘chim mồi’ nằm ở việc thay đổi đánh giá của ta về ‘giá trị’ của mỗi lựa chọn.

Mặc dù không ai chọn ‘chim mồi’, ta không thể phủ nhận độ ảnh hưởng của lựa chọn này tới cách ta đánh giá 2 lựa chọn còn lại. Ở cùng mức giá $125, combo báo điện tử + báo giấy trở thành một món ‘hời’. Chỉ cần nhìn qua cũng có thể nhận ra.

Và cái sự nhìn-qua-cũng-có-thể-nhận-ra này cũng chính là lý do tại sao ‘chim mồi’ rất hiệu quả.

Về cơ bản, lựa chọn ‘chim mồi’ có hiệu quả cao vì não của chúng ta… lười. 

Kể cả khi ta không nhận thức được điều này, não luôn thích các quyết định sử dụng ít năng lượng nhất. (có thể vì Mẹ Tự Nhiên đã ra chỉ thị là bảo toàn càng nhiều năng lượng thì khả năng sinh tồn càng cao)

Và qua việc tạo ra sự bất cân đối về giá trị giữa các lựa chọn, các “chim mồi” hướng chúng ta tới những quyết định dễ dàng hơn. Như ví dụ dưới đây, là căn nhà mà người môi giới muốn bán được.

Ngôi nhà ‘mục tiêu’. Hoặc bất kỳ ý tưởng, mặt hàng hoặc hành vi tích cực mà bạn muốn được chọn.

Thay vì bạn đưa người mua thẳng tới ‘mục tiêu’ và hope for the best. Hãy cùng tạo ra một sự bất cân xứng và tăng giá trị của căn nhà này lên nhé.

Để các ‘chim mồi’ làm việc một cách hiệu quả nhất, bạn sẽ giới thiệu tổng cộng 3 căn nhà. Trong đó có 1 căn rất xấu, căn ‘mục tiêu’ và 1 căn gần tương đồng với ‘mục tiêu’ nhưng không bằng.

Đầu tiên, chào mừng tới căn số 1.

Quyết định chọn một trong hai căn còn lại chưa bao giờ dễ dàng hơn.

Sau sự thất vọng của căn số 1, người mua sẽ cảm thấy ấn tượng hơn rất nhiều khi được đưa tới căn số 2 và số 3.

‘Mục tiêu’ là lựa chọn cuối cùng vì có giá trị tốt hơn căn ‘chim mồi’ còn lại

Chìa khoá khi thiết kế ‘chim mồi’ là tạo một sự bất xứng, qua đó tăng giá trị nhận thức của ‘mục tiêu’ lên.

Nào, đến lượt bạn thử tạo ‘chim mồi’ cho mục tiêu của mình rồi. Tôi dám chắc là xác suất ý tưởng của bạn được chọn sẽ tăng lên đáng kể đấy.

Chiến dịch ‘Chim Mồi’ thành công! @bychloenguyen

Nếu bạn đã áp dụng và thành công, kể cho tôi nghe nhé. Thực ra thì, nếu thất bại cũng kể tôi nghe để mình cùng tìm hiểu tại sao ha.
Email: zim.tripham@gmail.com
FB và IG @zimicas

See you in a bit.
Zim